Đông Nam Á bao gồm tiểu lục địa: Miến Điện, Thái Lan, Bán đảo Đông, Philippin, Inđônêxia, Mailaixia, Singapo, Bruney là vùng có một nền nông nghiệp cổ xưa trên trái đất. Trải qua nhiều thế kỷ, Đông Nam Á đã phát triển một nền sản xuất nông nghiệp độc đáo, lấy cây lúa làm cây trồng chính. Trên cơ sở ấy đã nảy sinh và phát triển một nền “văn minh lúa nước” nông dân Đông Nam Á đã sáng tạo và tích luỹ được nhiều kinh nghiệp trồng lúa phong phú thích hợp với mỗi quốc gia trong vùng. Văn minh lúa nước là một nền văn minh cổ đại xuất hiện từ cách đây khoảng 10.000 năm tại vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Nền văn minh này đã đạt đến trình độ đủ cao về các kỹ thuật canh tác lúa nước, thuỷ lợi, phát triển các công cụ và vật nuôi chuyên dụng. Chính sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hoá đương thời như Văn hóa Hemudu, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình…

1. Điều kiện khí hậu và các vụ lúa ở Đông Nam Á.

Chế độ gió mùa châu Á chi phối chặt chẽ các yếu tố khí hậu của toàn vùng và do đó chi phối hoạt động nông nghiệp và đời sống của con người.

Ở tất cả các vùng ở Đông Nam Á, mùa mưa chủ yếu nằm trong thời kỳ gió mùa Tây Nam. Vụ lúa mùa mưa là vụ lúa chính từ khi loài người bắt đầu thuần hoá cây lúa và biết trồng lúa, và trong quá trình phát triển của xã hội và của sản xuất đã được phân hoá thành những trà lúa (sớm, muộn) khác nhau, với những giống lúa khác nhau. Rồi với những tiến bộ kỹ thuật nhất định, người ta đã làm thêm những vụ lúa nữa trong mùa tương đối khô trên những diện tích có điều kiện và những cơ sở vật chất và kỹ thuật cần thiết.

2. Địa bàn trồng lúa và loại lúa ở Đông Nam Á.

2.1. Địa bàn trồng lúa.

Qua tình hình trồng lúa trên thế giới, ai cũng nhận thấy là cây lúa dễ thích nghi với nhiều loại đất khác nhau về nhiều mặt: thành phần của đất, cấu tượng của đất, các đặc tính lý học, hoá học về lý hoá học cũng như địa mạo và độ cao. Yếu tố quan trọng nhất đối với lúa nước ở đất thấp là cần có nước ở chân, và đối với lúa đất cao là có đủ nước trong mùa mưa, thoả mãn được nhu cầu sinh lý của nó. Ở Đông Nam Á cũng có tình hình tương tự như trên, nên địa bàn trồng lúa, nhất là trong mùa mưa, khá rộng bao gồm cả các vùng đất cao được hình thành tại chỗ và các châu thổ thấp của các dòng sông, cũng như tất cả những loại đất bằng khác có thể giữ nước để cấy lúa hay có đủ độ ẩm cho lúa gieo thẳng sinh trưởng được bình thường.

Địa bàn trồng lúa ở Đông Nam Á khá rộng và đã phản ánh những điều kiện địa lý, địa hình, thổ nhưỡng và khí hậu rất khác nhau, làm nảy sinh và tồn tại những tập quán sử dụng đất và trồng lúa khác nhau, từ thâm canh với trình độ khá cao, đến quảng canh một cách thô sơ.

2.2. Các loại lúa chính

2.2.1. Lúa cạn

Diện tích của lúa trồng cạn không nhiều so với tổng diện tích lúa chung.  Đối với toàn thế giới, lúa cạn chiếm khoảng 1/6 tổng diện tích lúa. Còn đối với vùng Đông Nam Á mưa nhiều, có mật độ dân số cao, có nhiều dân tộc ở các vùng núi đã áp dụng kỹ thuật san sườn núi làm ruộng bậc thang để cấy lúa nước, thì tỷ lệ diện tích lúa cạn có thấp hơn, nhưng vẫn có vị trí nhất định trong sản xuất lương thực ở các vùng này. Lúa cạn được gieo trồng chủ yếu bởi những người nông dân nghèo và ở những vùng thường nghèo nhất để tự cấp tự túc, chiếm khoảng dưới 10% diện tích lúa chung của vùng Đông Nam Á và đã có mặt ở hầu hết các nước.

2.2.2. Lúa nước

Lúa nước được gieo cấy chủ yếu trên các loại đồng bằng châu thổ của các dòng sông hay trên những đồng bằng ven biển. Các châu thổ của các dòng sông do phù sa sông bồi đắp ở vùng hạ lưu của chúng và tuỳ theo lưu lượng của từng con sông mà có diện tích rộng hay hẹp. Những chuyển biến địa chất trong lịch sử làm nâng cao những vùng ven biển và những đảo ở Đông Nam Á đã làm nổi lên những đồng bằng phù sa biển, sau đó có thể được bồi đắp thêm nhiều, ít phù sa sông.

Ở bán đảo Đông Dương, các vùng trồng lúa quan trọng nhất là châu thổ sông Hồng ở Bắc Việt Nam và châu thổ sông Cửu Long ở Nam Việt Nam, kéo dài lên phía Bắc nối liền với đồng bằng rộng lớn của Cămpuchia. Ngoài ra còn một số đồng bằng và châu thổ ven biển dọc bờ biển Việt Nam từ Thanh Hoá đến Thuận Hải, và một số đồng bằng trong nội địa dọc theo sông Mê Kông và các chi nhánh của nó ở Lào.

3. Vai trò văn hoá của cây lúa.

Cây lúa có ba vai trò quan trọng trong việc hình thành nét văn hoá cho cư dân bản địa.

Thứ nhất, cây lúa nước thúc đẩy quá trình đi tìm và khai thác các đồng bằng châu thổ. Người Miến đi từ vùng cao phía Bắc theo dòng sông Irrawady xuống Trung Myanma rồi Hạ Myanma. Người Thái đi từ vùng cao phía Bắc theo dòng sông Chao Phraya xuống Trung Thái Lan rồi Nam Thái Lan. Người Việt đi từ trung du xuống đồng bằng châu thổ sông Hồng, rồi đi tiếp qua miền Trung đồng bằng châu thổ sông Mê Kông.

Thứ hai, cây lúa nước thúc đẩy quá trình hình thành các tổ chức xã hội, làng và các quốc gia nông nghiệp. Ở Đông Nam Á có hai loại quốc gia nảy sinh trên sự phát triển của nông nghiệp lúa nước. Hai là những quốc gia nảy sinh trên nhu cầu của giao thương quốc tế.

Thứ ba, cây lúa nước thúc đẩy hình thành nên văn hoá nông nghiệp. Nhìn từ mối quan hệ với đất đai, nền văn hoá nông nghiệp có những đặc điểm sau: bám đất, tự túc, hướng nội, đóng cửa.

4. Nét văn hoá truyền thống từ nghề làm lúa ở Đông Nam Á.

4.1. Tín ngưỡng.

Do có cùng cơ tầng văn hoá nông nghiệp lúa nước trong điều kiện địa lý tự nhiên chung, hình thành nếp sống, lối sống gần gũi, cư dân Đông Nam Á cũng có chung yếu tố tín ngưỡng. Những tín ngưỡng bản địa của Đông Nam Á có thể quy tụ thành các yếu tố sau đây: Sùng bái tự nhiên, thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng phồn thực, thờ thần, trong đó cây lúa có vai trò chính trong việc hình thành tín ngưỡng sùng bái tự nhiên.

Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người. Với người Việt Nam cũng như người Đông Nam Á sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước, thì sự gắn bó với tự nhiên lại càng dài lâu và bền chặt. Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực tư duy là lối tư duy tổng hợp và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín ngưỡng đa thần, tính chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hệ quả trong lĩnh vực quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tình trạng lan tràn các nữ thần. Và vì cái đích mà người Việt Nam hướng tới là sự phồn thực cho nên nữ thần của ta không phải là các cô gái trẻ đẹp mà là các Bà mẹ, các Mẫu.

Trước hết, đó là Bà Trời, bà Đất, Bà Nước – những nữ thần cai quản các hiện tượng tự nhiên, quan trọng nhất, thiết thân nhất đối với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước. Về sau, tuy do ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa gốc du mục nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công, Hà Bá, song tục thờ bộ ba nữ thần này vẫn lưu truyền trong dân gian dưới dạng tín ngưỡng Tam Phủ với Mẫu Thượng Thiên (còn gọi là Mẫu Cửu Trùng hay Cửu Thiên Huyền Nữ). Mẫu Thượng ngàn và Mẫu Thoải (= thủy) – cai quản ba vùng trời-đất-nước. Nhiều nhà, ở góc sân vẫn có một bàn thờ lộ thiên gọi là bàn thờ Bà Thiên (hay bà Thiên Đài). Nhiều vùng, Bà Đất, Bà Nước tồn tại dưới dạng nữ thần khu vực như Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Sông, Bà Chúa Lạch. Bà Đất còn tồn tại dưới tên gọi Mẹ Đất (Địa Mẫu) . Bà Nước cũng tồn lại dưới tên Bà Thuỷ ( Đi liền với bà Thuỷ là bà Hoả dương tính như lửa mà cũng là Bà, đủ biết chất âm tính của văn hoá Việtmạnh đến như thế nào!).

den-mau-lao-cai
Đền Mẫu Lào Cai

Tục thờ Mặt Trời là một tín ngưỡng bắt nguồn từ vùng nông nghiệp Đông Nam Á. Không trống đồng, thạp đồng nào là không khắc hình mặt trời ở tâm; ở phương Nam, toàn dân thờ trời (bàn thờ bà Thiên Đài), ở Trung Hoa thời Kiệt – Trụ chưa thờ Trời, về sau cũng chỉ có vua (con trời) là thờ trời thôi, dân Trung Hoa không thờ trời (Kinh Xuân Thu ghi : “Dân thờ trời là đắc tội với Thiên tử”). Lễ Nam giao và lễ Tịch Điền mà trước đây triều đình thường tổ chức có thể xem là một hình thức nhà nước hoá tục Trời và thờ Đất.

Tiếp theo trời – đất – nước là các bà Mây – Mưa – Sấm – Chớp những hiện tượng tự nhiên có vai trò hết sức to lớn trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đến khi đạo Phật vào Việt nam và Đông Nam Á, nhóm nữ thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp này được nhào nặn thành hệ thống Tứ Pháp : Pháp Vân (thần Mây) thờ ở chùa Bà Dâu, Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu, Pháp Lôi (Thần Sấm) thờ ở chùa Bà Tướng, Pháp Điện (Thần Chớp) thờ ở chùa Bà Dàn. Lòng tin của nhân dân vào hệ thống Tứ Pháp mạnh đến nỗi vào thời Lí, nhiều lần triều đình đã phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long cầu đảo, thậm chí rước theo đoàn quân đi đánh giặc…

Người Việt còn thờ các hiện tượng tự nhiên khái quát như không gian và thời gian. Thần không gian được hình dung thco nguyên lí Ngũ Hành Nương Nương. Ngũ Phương chi thần coi sóc trung ương và bốn hướng; Ngũ Đạo chi thần trông coi các ngả đường. Theo địa chí, người ta thờ thần thời gian là Thập Nhị Hành Khiển (12 vị thần, mỗi vị coi sóc một năm theo Tí, Sửu, Dần, Mão,…). Thời gian kéo dài, bảo tồn sự sống vô tận nên 12 nữ thần này đồng thời có trách nhiệm coi sóc việc sinh nở – đó là Mười Hai Bà Mụ. Trong mảng tín ngưỡng sùng bái giới tự nhiên còn có việc Thờ Động vật và thực vật . Trong khi nếp sống trọng sức mạnh của loại hình văn hóa gỗc du mục dẫn đến tục tôn thờ những con thú dữ (như chó sói, hổ, chim ưng, đại bàng….) thì nếp sống tình cảm, hiếu hòa của loại hình văn hóa nông nghiệp dẫn người Việt Nam và Đông Nam Á đến tục thờ các con thú hiền như hươu, nai, trâu, cóc…; riêng loại hình nông nghiệp lúa nước của ta còn thờ một số động vật sống ở nước như: chim, nước, rắn, cá sấu.

Chim, rắn, cá sấu chính là những loài phổ biến hơn cả ở vùng sông nước, và do vậy, thuộc loại động vật được sùng bái hàng đầu. Người Việt có câu: nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng. Thiên hướng nghệ thuật của loại hình văn hóa nông nghiệp còn đẩy các con vật này lên mức biểu trưng: Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc “họ Hồng Bàng” và là “giống Rồng Tiên” (thành ngữ: con Hồng cháu Lạc, con Rồng cháu Tiên). Hồng Bàng chính là một loài chim nước lớn (“bàng” là lớn, chữ “hồng”(chữ Hán) ghép bởi chữ giang là sông nước và chữ điểu là chim). Tiên Rồng là một cặp đôi (chỉ có dân tư duy theo lối triết lí âm dương mới có vật tổ cặp đôi), trong đó Tiên được trừu tượng hoá từ giống chim (cho nên mẹ Âu Cơ đẻ trứng!), còn Rồng được trừu tượng hoá từ hai loại bò sát rắn và cá sấu có rất nhiều ở vùng nước Đông Nam Á.

Hình tượng Con Rồng vốn xuất phát từ vùng Đông Nam á – đó là điều đã được giới khoa học khẳng định. Nếp sống tình cảm hiếu hòa của người nông nghiệp đã biến con cá sấu ác thành con rồng hiền, con vật phù hộ cho người dân nông nghiệp. Hình cá sấu là mô típ trang trí khá phổ biến trong các đồ đồng Đông Sơn. Cá Sấu – Rồng được coi là chúa tể cai quản vùng sông nước với tên gọi Bua Khú (Vua Sấu) ở người Mường, Long Quân, Long Vương ở người Việt. Con Rồng Việt Nam mang đầy đủ hai nét đặc trưng cơ bản của tư duy nông nghiệp là tổng hợp và linh hoạt: là kết hợp của cá sấu và rắn, sinh ra từ nước và bay lên trời, bay lên trời mà không cần phải có cánh, miệng vừa phun nước vừa phun lửa. Rất nhiều địa danh Việt Nam được đặt tên “rồng”: Hàm Rồng, Hàm Long, Thăng Long, Hạ Long, Cửu Long, Bạch Long Vĩ, Long Đỗ, Long Điền, Long Môn, v.v.

4.2. Lễ hội.

Những lễ hội tiểu biểu ở Đông Nam Á trước hết đó là những lễ hội liên quan đến sản xuất nông nghiệp, liên quan đến mùa màng, gieo trồng và thu hái. Ở mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, tổ chức lễ hội, hình thức thể hiện có khác nhau do tác động của tín ngưỡng, tôn giáo và tập quán dân gian. Đây là những lễ hội gắn liền với nông nghiệp là lễ Mở Đường Cày của người Thái, Hội Mùa ở Sahu (Inđônêxia), lễ Xuống Đồng của Việt Nam, lễ Ban Giống Lúa Thiêng và lễ Té Nước của người Khơ me ở Cămpuchia, lễ hội Bun Khua Khau Nay Lan của người Lào… Những lễ hội này gồm cả phần hội với nhiều trò chơi dân gian sôi động. Sự tham gia của đông đảo cộng đồng dân cư đã góp phần gắn kết cộng đồng, giáo dục lòng yêu lao động, trân trọng với sản xuất nông nghiệp. Có thể nói lẽ hội gắn liền với nông nghiệp ở Đông Nam Á là lễ hội lớn và phổ biến của hầu hết cư dân Đông Nam Á. Lễ hội này tồn tại qua nhiều thế kỷ và còn đến ngày nay, dù hình thức và quy mô có những thay đổi.

092LehoixuongdongJPG
Lễ hội xuống đồng ở Sapa – Lào Cai

4.3. Một số tín ngưỡng từ cư dân trồng lúa ở Đông Nam Á.

3.1. Tín ngưỡng hồn lúa

Ở Đông Nam Á bản thân lúa được tôn thờ như một tôn giáo. Năm 1954, ông bà Proux có viết cuốn sách là “Hồn lúa”, nói về tín ngưỡng hồn lúa của người Ê đê: “Cột trụ của cuộc sống ở Đăk lăk là một thứ lúa tuyệt vời… Lúa là thức ăn chủ yếu. Lúa do thần linh ban cho. Lúa là thần linh”

Người Tagbanuwa ở Philippin cho rằng: lúa là cây thiêng, một tặng vật của thần linh, và là lương thực đích thực của con người và các thần linh.

Ở Java, cây lúa nước gắn với nghi lễ phồn thực và thuộc về nữ tính là hiện thân của nữ thần Devi Sri. Do vậy có nhiều cấm kỵ đối với đàn ông trong sự tiếp xúc với cây lúa.

Người Malaixia, những nghi lễ về lúa rất nhiều, nó phản ánh mối quan hệ giữa con người với môi trường. Cây lúa được đối xử rất tử tế vì nó nuôi sống con người. Cấm không được gõ, đập, đá vào bồ lúa, kho lúa vì làm như vậy hồn lúa sợ bỏ đi, và mùa sau sẽ mất mùa.

Người Khmer xem Mẹ lúa là một người đàn bà cưỡi trên mình cá, tay cầm bông lúa. Người Mảng, Khơ mú hình dung Mẹ lúa là cô gái trong trắng xinh đẹp trú ngụ trên vạt nương. Người Ba na gọi thần lúa là Yang. Sở ri, một nữ thần quyết định sự no ấm của con người. Hàng năm vào dịp trước khi thu hoạch lúa, họ làm lễ SaMơk (Mừng cơm mới) để tạ ơn nữ thần Yang Sơ ri.

Ở Bali (Inđônêxia), người ta gọi Nữ thần lúa là Ni ni hau Tri li, hoặc Devi Sri. Nghi lễ về Nữ thần lúa được tiến hành trên cánh đồng vào thời gian đập lúa.

Từ quan niệm về hồn lúa như vậy, người ta có những nghi lễ phức tạp diễn ra trong chu trình trồng lúa. Khi chọn hạt giống, khi nhổ mạ, khi cấy lúa, khi làm cỏ, khi gặt hái, khi chất thóc vào kho, khi thổi cơm mới… người ta khấn nguyện để hồn lúa ở lại với cây lúa, ở lại với dân làng.

Người Việt Nam thì cho rằng Nữ thần lúa được trời sai xuống trần gian để giúp con người. Nữ thần lúa hóa phép cho cây lúa tự mọc, tự trổ bông, khi chín lại tự đi về nhà người. Con người không phải làm gì mà cũng có cơm gạo để ăn. Một lần, khi lúa kéo về nhà nọ, cô chủ nhà đang bận dọn dẹp đã nóng nẩy cầm chổi đánh và mắng lúa. Nữ thần lúa giận dỗi và quyết định trừng phạt con người bằng cách thu lại hết phép. Từ đó con người muốn có cơm gạo phải lao động hết sức vất vả. Ngoài ra, con người còn phải làm lễ cúng  thần linh để xoa dịu sự giận dữ của Nữ thần, để Nữ thần đừng làm cho hạt lúa bị lép.

Tín ngưỡng hồn lúa không chỉ được thực hiện ở các hành động cảm ơn, vỗ về hay tán dương hồn lúa mà còn được thực hành thông qua các biểu hiện ở trang phục sinh hoạt các lễ hội cổ truyền, các động tác múa, lời cầu khẩn, cách trang trí, đồ thờ…

Có thế nói tín ngưỡng hồn lúa chính là tín ngưỡng cội nguồn của các tín ngưỡng nói chung và của các lễ hội cổ truyền nói riêng. Đó đồng thời cũng là cội nguồn tạo ra những sắc thái tương đồng cho các lễ hội cổ truyền trong toàn vùng Đông Nam Á.

3.2. Tín ngưỡng thờ nước.

Đối với loài người nói chung, nước là một trong yếu tố rất quan trọng trong đời sống và trong sinh hoạt của con người. Nước cần cho sự sống cơ thể người chẳng kém gì không khí để thở. Với người làm nông nghiệp trồng trọt, nhất là trồng lúa, và lại là lúa nước, thì nước lại càng có vai trò quan trọng hơn. Có thể nói, nước là điều kiện đầu tiên, là yếu tố quyết định sự sống của cây cối nói chung và cây lúa nói riêng. Do vậy, mặc dù ở thời kỳ sơ khai, thờ nước đã là một trong những yếu tố tín ngưỡng phổ biến trên trái đất này, nhưng không có vùng nào ngoài Đông Nam Á, tín ngưỡng ấy lại tồn tại dai dẳng và được thể hiện sinh động đến như thế.

Hầu như trong mọi lễ hội, kể cả Tết cổ truyền – với tư cách là lễ hội lớn nhất của một dân tộc – người ta luôn bắt gặp những lễ thức thờ nước hoặc những tục, trò… liên quan tới việc thờ nước.

Trong các lễ hôi cổ truyền đón năm mới của các dân tộc Đông Nam Á, người ta thường dùng nước để chúc mừng nhau bởi nước là yếu tố trực tiếp đem đến sự no đủ hạnh phúc và may mắn. Có lẽ vì ý nghĩa đó mà ở một số quốc gia như Lào, Cămpuchia…, người ta còn gọi Tết cổ truyền của dân tộc mình là hội té nước.

Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ nước không chỉ thể hiện trong sinh hoạt đặc biệt là Tết, dưới dạng chúc nước, mà nó còn thể hiện ở nhiều lễ hội dưới dạng khác nữa.

Với đặc trưng tự nhiên và kinh tế là nông nghiệp lúa nước, các lễ hội vốn được nảy sinh từ đặc trưng ấy, luôn gắn với các lễ thức cầu mong đủ nước để cấy lúa phát triển. Và lễ “cướp bưởi cầu mưa, cướp dừa cầu nước” ở Vĩnh Phú – Việt Nam là một ví dụ.

Mặc dù chỉ là một trong những yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của con người, nhưng ở Đông Nam Á nước được coi là một yếu tố quyết định sự sống của con người. Do vậy, hầu như ở lễ hội cổ truyền Đông Nam Á nào người ta cũng thấy những biểu hiện dạng thức, khác nhau của tục thờ nước. Có thể nói nước là một tín ngưỡng phổ biến và tín nguỡng đặc thù của khu vực Đông Nam Á. Rất nhiều các tín ngưỡng khác trong vùng đã được gắn với việc thờ nước.

Phần kết luận

Đông Nam Á nằm trọn vẹn trong vùng khí hậu nhiệt đới. Không khí nóng và ẩm, lắm mưa nhiều nắng, sông hồ kênh rạch chằng chịt, điều kiện khí hậu và thiên nhiên giống nhau cũng phần nào tạo nếp sống và lối tư duy gần nhau giữa các dân tộc.

Các nước Đông Nam Á cùng nằm giữa hai nôi văn minh lớn của châu Á là Ấn Độ và Trung Quốc. Hai nền văn minh vĩ đại này đã ảnh hưởng lớn và nhiều mặt đến các nước Đông Nam Á như ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo, thể chế chính trị… Sự ảnh hưởng cùng một nguồn chung cũng là cơ sở để tạo những điều kiện xã hội tương tự nhau trong toàn vùng.

Đông Nam Á trước đây sinh sống dựa vào nghề nông. Toàn vùng Đông Nam Á đều trồng lúa nước và ăn cơm gạo. Với loại cây trồng này, người dân Đông Nam Á cùng chung một nỗi lo hạn hán và bão lụt, đều chịu ảnh hưởng của mặt trời và sông nước. Vì vậy mà tục tôn sùng mặt trời, tôn sùng nước là tín ngưỡng chung của các dân tộc Đông Nam Á. Các nước Lào, Cămpuchia, Thái Lan… đều có ngày hội té nước. Thần thoại của vùng đều nói đến nạn hồng thủy. Theo tư liệu của Giáo sư Phan Ngọc thì toàn Đông Nam Á có tục đua thuyền, rước nước để cầu cho mùa màng bội thu.

Tóm lại, khi loại hình kinh tế lúa nước trở thành phương thức hoạt động kinh tế chính của vùng thì nó đã quy định toàn bộ đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cư dân trong vùng. Nông nghiệp trồng lúa nước đã trở thành cội nguồn nền văn minh khu vực “một nền văn minh có đủ sắc thái đồng bằng, biển, nửa đồi núi, nửa rừng với dạng kết cấu đan xen phức tạp… nhưng mẫu số chung là văn minh nông nghiệp trồng lúa nước, văn hóa xóm làng”. Và đó cũng chính là cơ sở tạo ra nét tương đồng trong các nền văn hóa của khu vực Đông Nam Á ngày nay.